Dàn ý và 4 bài văn mẫu phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bài học phân tích bài thơ Đây là thôn Vĩ Dạ khối 11 của Hàn Mạc Tử bao gồm kế hoạch và các bài viết mẫu được lựa chọn. Mong rằng tài liệu này sẽ hỗ trợ các em học sinh phân tích bài thơ Đây là thôn Vĩ Dạ tốt nhất.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Bắt đầu bài viết

Hòa cùng không gian tự nhiên, linh hồn của con người và làng quê tươi đẹp trong bức tranh tự nhiên được diễn tả trong tác phẩm nổi tiếng Đây Làng Quê Đêm của Hàn Mạc Tử.

2. Nội dung bài viết

Người đọc cảm nhận sâu sắc, bài thơ tạo sự hòa nhập với cảnh quan tươi đẹp của vùng quê thanh bình, bài thơ đem lại nhiều cảm xúc sâu sắc.

Bài thơ đã mang lại cho người đọc một hình ảnh tự nhiên rộng lớn, trong đó có con người.

Bức họa tự nhiên của phong cảnh ở phố Huế, nhẹ nhàng, hòa quyện vào không gian, có hình ảnh cây cau, vườn hoa cúc. Bức họa tự nhiên tươi sáng, mang đến không gian thần diệu và tươi mới cho môi trường.

Cảnh quan của phố Huế nhẹ nhàng, miêu tả cảnh sắc có vẻ buồn lạnh, khi phải rời xa nơi này, sự tách biệt làm cho mọi cảnh vật trở nên nhạt nhẽo. Đồng thời còn là tâm trạng u buồn của nhà thơ.

Bối cảnh trước đây của tự nhiên, những hình ảnh êm đềm, tận hưởng những cảm xúc sâu sắc, đã thấm sâu vào tâm hồn của con người, những khổ thơ đã đi vào lòng người.- Tác giả đã hoà mình vào không gian tự nhiên khi trở về Huế, làm cho cảnh vật mang tông màu buồn, làm rung động trái tim của con người, bối cảnh biết buồn, bi thương, mang không gian êm đềm, buồn bã và cảnh sắc như có sự chuyển động.

Trong lòng của mỗi người, tồn tại hình ảnh không rõ ràng về các phong cảnh, thiên nhiên êm đềm và tận sâu. Người viết đang mơ mộng trước không gian đó, xa lạ.

Trước phong cảnh của cuộc sống, tình yêu thương của con người cũng phai mờ, trở nên tuyệt vọng trước khoảng không và thời gian. Nó nhẹ nhàng, mang đến màu sắc, sự tươi vui trước những khung cảnh của thiên nhiên.

Bài thơ đã mang những cảm nhận đặc biệt của con người trước không gian tự nhiên ở đây. Nó êm dịu, tinh tế và chứa đựng nhiều cảm xúc sâu sắc trước cuộc sống, tự nhiên và con người.

Bài thơ đã đem đến cho người đọc những cảm xúc chân thành và hình ảnh tự nhiên nhẹ nhàng, mang đến nhiều cảm nhận sâu sắc cho người đọc.

3. Điều này chứng tỏ rằng.

Mặt đất và bầu trời, của khung cảnh chìm vào ta hòa quyện với thiên nhiên rộng lớn không gian, khiến con người cảm thấy như đang đọc một bài thơ đã được viết.

Đoạn văn đã được chỉnh sửa: Bài viết mẫu phân tích bài thơ Đây là làng Vĩ Dạ.

Phân tích bài thơ Đây là thôn Vĩ Dạ – bài 1.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Đã được viết lên những bài thơ xuất sắc, đã bay cao từ nỗi đau của tâm hồn mình, những khoảnh khắc ông đã kỹ lưỡng chọn lọc, những phút giây mà ông đã hòa mình vào trong thơ, những phút giây đau buồn và hạnh phúc, đã phát ra những câu thơ, tiếng khóc của nghệ thuật trước cuộc sống, Hàn Mặc Tử – một trái tim, một tâm hồn lãng mạn tràn đầy yêu thương. Và bài thơ Đây là thôn Vĩ Dạ đã được sáng tác ngay trong những khoảnh khắc tuyệt diệu đó. Mối tình riêng đã hiện diện trong mối tình chung, cái tình đậm đà trong sáng đã kết hợp với thiên nhiên tươi đẹp, hồn thơ vẫn mang chút buồn đau.

Đâm vào nhau kết hợp và hình tượng ảo mơ, ước mơ và thực tế, con người hòa mình vào cảnh thiên nhiên trong sự yên bình và ẩn chứa một chút buồn u và tình yêu mãnh liệt đối với Tử Mặc Hàn, một trong những bài thơ hay nhất trong làng thơ Dạ Vĩ thôn này.

Khai mạc đầu thơ là một lời phê phán nhẹ nhàng từ nhân vật lãng mạn.

Tại sao bạn không quay về tham gia vào thôn Vĩ?

Một khía cạnh của phong cảnh Huế, là làng Vĩ – vùng nông thôn ngoại ô tuyệt đẹp, có vẻ đẹp hấp dẫn và ấm áp tình quê. Nàng đặt câu hỏi chỉ một câu, nhưng câu hỏi đó chứa đựng nhiều tình cảm mong đợi và tiếc nuối. Câu thơ của nàng vừa trách móc vừa nuối tiếc vì người yêu đã bỏ lỡ cơ hội ngắm nhìn vẻ đẹp của làng Vĩ.

Chúng ta hãy chú ý quan sát, tận hưởng vẻ đẹp của làng Vĩ.

Nhìn ánh sáng mặt trời hàng cau mới lên.

Vườn ai rất xanh mượt như ngọc.

Lá trúc che ngang mặt chữ nông.

Hình ảnh ánh sáng tươi tắn, tràn đầy sức sống trên đỉnh cao vút cao đã được miêu tả rõ nét ở câu đầu tiên. Một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời mở ra trước mắt người đọc. Ánh sáng sớm bắt đầu của một ngày mới, những tia nắng sớm kia được ánh sáng tưới lên trên đỉnh cau xinh đẹp, và toàn bộ tràn ngập ánh sáng và buổi bình minh. Ánh sáng từ cây cau mới mọc tại sao lại gợi lên một cảm xúc về quê hương. Câu thơ này đột ngột khiến ta nghĩ tới những câu thơ của Tố Hữu trong bài thơ Xuân lòng. Đặc điểm đặc biệt của làng Vĩ – quê hương của người con gái đã được miêu tả rõ nét.

Ắng xuân tươi trên thân dừa xanh.Và chảy tan qua kẽ lá cành chanh. Ánh nhởn nhơ đùa quả non trắng phếu. Tàu cau non lấp loáng muôn gươm xanh. Nắng xuân tươi trên thân dừa xanh.

Mịn xanh nhung choàng chiếc vào gắn được ngọc viên như lấp lánh sáng lại đọng đêm sương hạt những cho làm cau vườn những vào chiếu nó trước mà quê làng xuống rọi tiên đầu nắng tia những là đó. Nồng nàn rõ rực lên rực rỡ cũng nó giờ bao nhiêu năm một cho đầu mở, xuân mùa của nắng là ý nghĩa còn cũng mới nắng.

Vườn ai rất xanh mượt như ngọc.

Vần thơ này, ta gặp cái nhìn của thi nhân đã giảm xuống và bao quát ở chiều rộng. Đến câu thơ này, ta cũng tưởng tượng ra ngay cái màu xanh mượt mà, mỡ màng của vườn cây khi nhắm mắt lại. Một khoảng xanh của vườn hiện ra. Ta không chỉ cảm nhận ở đó màu xanh của vẻ đẹp mà nó còn tràn trề sức sống mơn mởn. Những tán lá cành cây trở thành cành lá ngọc sau khi được sương đêm rửa sạch. Không phải xanh mượt, cũng không phải xanh mỡ màng mà chỉ có xanh như ngọc mới diễn tả được vẻ đẹp phong phú, sự sống của vườn cây. Một màu xanh quý giá, lấp lánh, trong trẻo làm cho vườn cây càng sáng bóng lên. Hình như cả vườn cây đều tắm trong không khí còn trong lành sự tinh khiết chưa hề bị ô nhiễm. Không khí ấy làm hiện rõ hơn đường nét màu sắc của cảnh sắc mà mắt thường chúng ta bỏ qua. Nếu không có tình yêu sâu sắc đối với Vĩ Dạ thì Hàn Mặc Tử không thể có được những vần thơ trong trẻo như vậy. Ai từng sinh ra và lớn lên ở Việt Nam, đặc biệt ở xứ Huế thì mới thấm những vần thơ này: Cái nhìn như chạm nhẹ vào sắc màu của sự vật để rồi bất ngờ đến đến mức kinh ngạc.

Lá trúc che ngang mặt chữ nông.

Thực thực hư hư, màng mơ trúc lá chiếc những: thế đẹp thế ngờ bất quan liên mối có lại sao điền chữ mặt gương ngang che thả thon, mảnh thanh trúc lá chiếc những: thế đẹp thế ngờ bất quan liên mối có lại sao điền từ mặt gương ngang che mảnh thanh. Mặt khuôn điền từ mặt khuôn điền từ ấy càng hiện ra thấp thoáng sau lá trúc mơ màng, hư hư thực thực.

Bên bờ sông Hương yên tĩnh, làng Thôn Vĩ Dạ nằm. Nhà văn đã chuyển từ cách miêu tả cảnh làng quê trong khổ thơ đầu để mở rộng tình yêu và miêu tả cảnh sông với sự hoang mang, nỗi nhớ và sự buồn tê tái không thực như một giấc mơ.

Gió theo hướng gió mây theo đường mây.

Dòng nước u buồn, hoa bắp rung.

Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.

Có mang trăng về kịp tối nay không?

U uất, đau lòng là tâm hồn của Hàn Mặc Tử. Chúng ta gặp lại không còn thấy giọng hồn nhiên tràn đầy sức sống ở đoạn trước nữa. Một đau thương, mang một nỗi buồn về sự tách biệt, tiễn biệt dâng trào trong lòng người. Và đây cũng là cảm xúc của những người xưa trong cuộc sống, nỗi buồn về sự xa cách nhớ nhung. Có thể là mãi mãi, không thể gặp mặt và không thể là bạn đồng hành, gió và mây xa nhau, gió đi theo con đường gió, mây đi theo con đường mây. Nó lênh đênh, lạc lõng thì nay lại càng đau lòng hơn. Đó là cảm nhận của nhà thơ.

Dòng nước u buồn hoa bắp rung lắc.

Đấy mà mộng đấy, thực đấy thì phong cách diễn đạt tuyệt vời, nhưng ý thơ thật u buồn. Ta đã trải qua rất nhiều tâm trạng thoảng vui – thoảng buồn, nhưng buồn thì nhiều hơn. Cùng với thời kỳ Hàn Mặc Tử, ta đã sống và gặp rất nhiều nhà thơ lãng mạn ở đó. Ý thơ tiếp tục trong hai câu sau, thật u buồn, nhưng với phong cách diễn đạt tuyệt vời. Tảng bèo trôi dạt lênh đênh của số phận con người, gợi lên những bến bờ xa vắng trên mặt nước êm dịu của dòng sông Hương. Tâm trạng chán nản trong cuộc sống tối tăm của những người sống bên sông là sự thay đổi thái độ. Hoa lung lay nhẹ nhàng trong một nỗi buồn xa vắng. Dòng sông u buồn gợi cảm giác buồn lặng, cô đơn đối với một tâm hồn mãnh liệt như Hàn Mặc Tr. Những bông hoa bắp màu xám tẻ nhạt, u tối như màu khói làm sao mới u buồn với dòng sông Hương hiện ra.

Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.

Cỏ đưa trăng về đúng giờ tối nay?

Vầng trăng trong hai câu thơ này là vầng trăng toàn diện của nhà thơ trước tình yêu chưa bị làm mờ. Hàn Mặc Tử rất yêu trăng nhưng vầng trăng trong các bài thơ khác không giống như thế này. Một ánh trăng dữ dội, kỳ lạ, một ánh trăng quyến rũ, lờ lững. Cảnh vật thiên nhiên tràn đầy ánh sáng, một ánh trăng vàng rực chiếu xuống dòng sông, tạo ra sự lung linh, huyền ảo cho cả dòng sông và những bãi cát. Cảnh quá thơ, mộng quá! Và cũng đa tình quá! Dòng nước buồn đã trở thành dòng sông trăng lung linh, con thuyền khách đã trở thành thuyền trăng. Tác giả đã truyền tải một tình yêu khao khát, niềm mong đợi, nhớ nhung vào con thuyền trăng, vào cả dòng sông trăng. Thơ được viết bằng ngôn ngữ thơ thật tài tình, thật đẹp với xứ Huế mơ màng. Tác giả đã viết những câu thơ nhẹ nhàng, sâu sắc nhưng chứa đựng cả tình yêu bao la, mãnh liệt đến cùng. Tất cả như tan hoà trong vầng trăng thân thuộc của Hàn Mặc Tử.

Gió thổi mạnh ở tầng cao, trăng nghiêng ngửa.

Tỏa ra thành một vũng đọng vàng quý giá.

Hay:.

Trăng nằm rủ rê trên cành liễu.

Chờ đến khi gió đông thổi để thư giãn.

Mỗi tình cảm, mỗi suy nghĩ của Hàn Mặc Tử biến thành một không gian xung quanh mặt trăng. Nó hòa quyện vào cơ thể ông, là ông là thiên nhiên, là mọi người. Trên những bài thơ của ông, mặt trăng trở thành không thể đo lường, đôi khi vô hình đôi khi có hình dạng, đôi khi đáng sợ đôi khi quyến rũ.

Thuyền ai ghé thăm sông trăng kia.

Có thể đưa trăng về đúng giờ hôm nay không?

Hàn Mặc Tử cũng không chờ đợi vầng trăng hạnh phúc đó nữa, một năm sau ông mãi mãi xa lìa cuộc sống. Vầng trăng ở đây có lẽ là vầng trăng hạnh phúc và con thuyền không kịp trở về cho người trên bến đợi? Câu hỏi biểu lộ sự lo lắng của một số phận không có tương lai. Hàn Mặc Tử hiểu bệnh tật của mình nên ông tự ti về thời gian cuộc sống ngắn ngủi, vầng trăng không về kịp.

Nhưng hiện nay, con người đang sinh sống và đang tiếp tục ước mơ.

Mơ khách từ xa, khách từ xa.

Áo trắng quá trắng không nhìn thấy được.

Tại đây, khói sương làm mờ hình ảnh.

Ai biết tình yêu của ai có sâu sắc?

Tình yêu, khái niệm trái tim, những kỷ niệm đau buồn của tình cảm đó, ông đã gửi tất cả vào những trang thơ. Và sau đó, tất cả như trôi trong những giấc mơ của ước ao, hy vọng. Màu sắc áo trắng cũng là màu sắc của ánh sáng của Vĩ Dạ mà khi nhìn vào đó, tác giả choáng ngợp, cảm thấy mê ly trước sự trong trắng, thanh khiết, và cao quý của người đối tác.

Không còn nghi ngờ khiến những nhà thơ có một khoảng cách nào đó với những phụ nữ y tá ấy dường như.

Tại đây, khói sương làm mờ hình ảnh.

Ai biết tình yêu ai có sâu sắc?

Kinh thành mờ mịt – cảnh vật đã được miêu tả trong câu thơ. Con người trong màn mù mịt đó liệu có mờ dần và tình yêu của họ có mờ nhạt theo? Nhà thơ miêu tả tâm trạng của mình, không phải cảnh vật, trong câu thơ ấy chứa đựng biết bao tình cảm. Những cô gái Huế rất kín đáo, che giấu trong màn mù mịt, trở nên xa vời quá, liệu khi họ yêu có đậm đà không? Tác giả không dám khẳng định về tình cảm của người con gái Huế, ông chỉ nói:

Ai biết tình yêu của ai có sâu sắc?

Lời thơ như nhắc nhở, không phải bộc lộ một sự tuyệt vọng hay hy vọng, đó chỉ là sự thất vọng. Sự thất vọng của một trái tim khao khát yêu thương mà không bao giờ và mãi mãi không có tình yêu trọn vẹn. Bài thơ càng hay càng ngậm ngùi, nó đã khép lại nhưng lòng người vẫn thổn thức. Cả bài thơ được liên kết bởi từ ai mở đầu: Vườn ai rất xanh mượt như ngọc.; tiếp đến Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.; và kết thúc là Ai biết tình yêu ai có sâu sắc? Càng làm cho Đây thôn Vĩ Dạ sương khói hơn, huyền bí hơn.

Con người của vùng đất này sở hữu trái tim phong phú về tưởng tượng và tràn đầy tình yêu của nhà thơ đối với nghệ thuật gợi cảm xúc, hòa quyện với thiên nhiên từ tận cùng trái tim. Thôn Vĩ Dạ được coi là một hình ảnh tuyệt đẹp về cảnh người và.

Trải qua bao năm tháng, cái tình Hàn Mặc Tử vẫn còn nguyên nóng hổi, lay động day dứt lòng người đọc.

Đoạn văn đã được phân tích là bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – bài 2.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Việt Nam văn chương của tài năng nhà thơ Mặc Tử Hàn một. Ông đề cập đến, chúng ta lại đề cập tới một bậc đàn ông nghệ sĩ tài năng người một. “Đây là làng Vĩ Dạ” bài thơ qua, ta càng nhận ra rõ hơn nét viết sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Huế của xử về thơ Bài thơ thôn “Đây Da Vĩ”, lòng tiếng là yêu thương quê hương, buồn thảm nhưng, như dòng sông hiền hòa Hương với câu hò quyến rũ của Huế.

Tại sao anh không trở về thôn Vĩ chơi?

Nhìn ánh sáng mặt trời hàng cau mới lên.

Tuần trước, tôi đã đến thăm làng Vĩ. Làng Vĩ là một địa điểm đẹp, không quá tráng lệ như “Đèo ngang”, nhưng mang trong mình sự bí ẩn và mơ màng. Ánh sáng buổi sáng “ánh sáng mới” chiếu xuống những hàng cây cau màu xanh tươi, tạo thành một khung cảnh tuyệt đẹp. Tôi đã cảm nhận được sự sống đang tràn ngập khắp nơi dưới ánh sáng trong trẻo đó. Có lẽ, tôi đã quá lâu không ghé thăm làng Vĩ, và câu hỏi trong bài thơ của cô gái Huế đã nhắc nhở tôi về điều đó.

Vườn ai rất xanh mượt như ngọc.

Lá trúc che ngang mặt chữ điền.

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt chúng ta, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh mượt mà, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn tả sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc. Giữa khung cảnh thiên nhiễn trừ tình đó, hình ảnh con người như thấp thoáng đâu đây “Lá tre che ngang mặt chữ điền.. Chúng ta thường nhắc đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai nhắc đến “mặt chữ điền”, chỉ một khuôn mặt hiền lành, phúc hậu. Con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương trộm nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng

Bồi hồi lên xuất sắc, Mùi sông bên cạnh nằm mát xanh vườn đất, hòa bình Mùi sông dòng bên cạnh nằm Vĩ làng.

Gió theo hướng gió mây theo đường mây.

Dòng nước u buồn hoa bắp rung lắc.

Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.

Có mang trăng về kịp tối nay không?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. Chúng ta thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. Vậy mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động. Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xuất hiện trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đó để nói lên nỗi lòng của mình “Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.”. Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà trở thành “sông trăng”, làm cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên lung linh, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có thể trở thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế. “Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu c, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

Lạnh lẽo đến mơ màng một thế giới khác. Dòng sông dưới ánh trăng trở nên như biến mất một cách dễ dàng, tiềm thức bên trong lại nhớ nhung những kỷ niệm tất cả nhưng đã qua.

Mơ khách từ xa, khách từ xa.

Áo em quá trắng, nhìn không thấy được.

Tại đây, khói sương làm mờ hình ảnh.

Ai biết tình yêu ai có sâu sắc chưa?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa……….khách đường xa” làm cho giọng thơ trở nên sâu nắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. Tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, máu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế. Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiên, trở nên xa vời, khó nắm bắt. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng cảu chính tác giả “Ai biết tình yêu ai có sâu sắc?” Sự thất vọng của một tình yêu không bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phấp sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm

Tình ái giàu có nghệ sĩ một của hoa tài sự cùng giả tác chính của sức sống nghị hơn phục khâm càng ta đó qua. Tình và cảnh giữa đối tuyết hợp kết sự là “Đây thôn Vĩ Dạ” thơ Bài.

Đoạn văn đã được phân tích lại là: “Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ – bài 3”.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Sự khắc sâu trong lòng tác giả chứa đựng cả sự cô đơn, hối tiếc và nỗi buồn. Vùng đất xinh đẹp ở thôn Vĩ với người con gái xứ Huế ông lặng yêu được thể hiện trong bài thơ. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. “Đây là thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Ông thường tập trung vào tâm lý, nội tâm và ít mô tả và kể trong những tác phẩm của mình. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà văn tài năng xuất sắc.

Văn hoá Việt Nam có những đặc trưng gì đặc biệt? Có phải là sự kết hợp giữa truyền thống và đương đại?

“Tại sao anh không quay về thăm làng Vĩ ?”.

Có thể nhà thơ đã mượn câu hỏi đó để bắt đầu bài thơ của mình. Nếu hiểu theo ngữ cảnh này, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm yêu thương đã gửi cho nhà thơ một bức ảnh bưu điện với vài lời chào hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao lâu không về thăm làng Vĩ. Câu hỏi thơ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự suy nghĩ hoặc tự đặt câu hỏi bản thân đã lâu rồi không về thăm nơi này với một ước ao một lần quay trở lại đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:..

“Nhìn ánh sáng mặt trời hàng cau mới lên.

Vườn ai rất xanh mượt như ngọc.?

Lá trúc che ngang mặt chữ nông.”

Đã được tái hiện trong ba câu thơ là những hình ảnh quen thuộc giản dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai”. Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh của những hàng cau đông đúc nổi lên dưới ánh “mặt trời mới”, với khu vườn đã “xanh tươi như ngọc”. Câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và tràn đầy sức sống với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo trong hai từ “mặt trời mới”, “xanh tươi”. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh tươi như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ đẹp mắt, thơ mộng mà còn rất phong phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất chân thật và chăm chỉ qua hình ảnh “lá trúc” với “khuôn mặt nông dân”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điều đó vì người xưa thường so sánh cây trúc với người hiền lành, còn khuôn mặt nông dân thường là những người có lòng nhân ái. Bài thơ không chỉ mô tả hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ mà còn cho người đọc nhận thấy được sự ca ngợi, lòng yêu mến của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Một cảm xúc u sầu bỏ rơi trong tâm trí của nhà thơ lại đưa chúng tôi đến với những hình ảnh chia xa, trong câu thứ hai của bài thơ xuất hiện một hình ảnh đẹp và vui tươi, đem đến sự buồn bã trong câu thơ đầu tiên nếu như.

“Gió theo hướng gió, mây theo đường mây.

Dòng nước u buồn, hoa bắp rung.”

Bất cứ lúc nào cũng có những khoảnh khắc vui buồn “bởi vì lúc này, người thơ của Mác mang đến một cảnh buồn giống như điều đó như thể điều Điều”. Nhấp nhô hoa và kết thúc buồn nước chảy “hình ảnh và kết thúc trong câu thơ biến thành cách tiếp cận của nhân loại trong cuộc sống, tiếp tục câu thơ trong tài năng biến thành cách tiếp cận của nhân loại trong cuộc sống, đóng góp vào nhịp điệu của câu thơ với sự kết hợp xa cách và sự tách rời của một hiện thực. Câu thơ với mẫu 4-3 đóng góp vào nhịp điệu với sự kết hợp xa cách và sự tách rời của một điều, trên câu thơ trong thời gian mây và gió, liên kết với nhau, thường là mây và gió bởi “bay mây, thổi gió” là cách chúng ta thường nói.

Hướng nội và u sầu, cô đơn một Hàn Mặc Tử được người đọc dần thấy khi đọc những câu thơ tiếp.

“Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.

Có mang trăng về kịp tối nay không?”

Đoạn văn sau khi được sắp xếp lại cấu trúc: “Trong thơ ca từ ngày xưa, chúng ta thường thấy hình ảnh của mặt trăng được rất nhiều nhà thơ đưa vào bài viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm mặt trăng – Cúi đầu nhớ quê hương”, Bác Hồ có “mặt trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông mặt trăng” và con thuyền “đưa mặt trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông mặt trăng” và thuyền “đưa mặt trăng” là hai hình ảnh rất quý giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong bài thơ này. “Mặt trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn thân mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để thổ lộ tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung bài thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng mặt trăng chính là nhà thơ. Bởi vì ở bài thơ đầu hình ảnh làng Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “đưa mặt trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một ước muốn của nhà thơ được trở về quê hương. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối bài thơ dù thể hiện nỗi đau đáu nhớ về làng Vỹ, mong muốn trở về thăm nhưng dường như lại chứa đựng cả một nỗi khác khoái, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trở về.”

Với một sự chơi đùa, không hy vọng trong lòng tác giả, bài thơ tiếp tục đưa chúng ta đến với một thế giới tưởng tượng, không thật sau những hình ảnh u ám và cảm giác cô đơn trong tâm trí của nhà thơ.

“Mơ khách từ xa, khách từ xa.

Áo em quá trắng đến mức không thể nhìn thấy.

Tại đây, khói sương làm mờ hình ảnh.

Ai biết tình yêu ai có sâu sắc?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình yêu ai có sâu sắc?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã ghi lại trong bài thơ “Đây làng Vĩ Dạ” hình ảnh vùng quê tươi đẹp, phong phú và những người dân của xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với miếng đất yên bình của làng Vĩ. Trái tim của độc giả sẽ mãi khắc sâu những ấn tượng này. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp ngôn từ khéo léo, mang đến cho người đọc sự hiểu biết về sự cô đơn khắc nghiệt và mong muốn trở về với miếng đất đẹp đẽ và cuộc sống hàng ngày. “Đây làng Vĩ Dạ” là một tác phẩm tuyệt vời đóng góp cho văn học đất nước.

Phân tích tác phẩm Đây là thôn Vĩ Dạ – tác phẩm thứ 4.

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

Sự khắc sâu trong lòng tác giả chứa đựng cả sự cô đơn, hối tiếc và nỗi buồn. Vùng đất xinh đẹp ở thôn Vĩ với người con gái xứ Huế ông lặng yêu được thể hiện trong bài thơ. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. “Đây là thôn Vĩ Dạ” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ, để lại một ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Ông thường tập trung vào tâm lý, nội tâm và ít mô tả và kể trong những tác phẩm của mình. Hàn Mặc Tử là một trong những nhà văn tài năng xuất sắc.

Có thể nhà thơ đã mượn câu hỏi đó để bắt đầu bài thơ của mình. Nếu hiểu theo ngữ cảnh này, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm yêu thương đã gửi cho nhà thơ một bức ảnh bưu điện với vài lời chào hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao lâu không về thăm làng Vĩ. Câu hỏi thơ đầu tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự suy nghĩ hoặc tự đặt câu hỏi bản thân đã lâu rồi không về thăm nơi này với một ước ao một lần quay trở lại đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:..

“Nhìn ánh sáng mặt trời hàng cau mới lên.

Vườn ai rất xanh mượt như ngọc.?

Lá trúc che ngang mặt chữ nông.”

Đã được tái hiện trong ba câu thơ là những hình ảnh quen thuộc giản dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai”. Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh của những hàng cau đông đúc nổi lên dưới ánh “mặt trời mới”, với khu vườn đã “xanh tươi như ngọc”. Câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và tràn đầy sức sống với cách sử dụng ngôn ngữ khéo léo trong hai từ “mặt trời mới”, “xanh tươi”. Biện pháp tu từ so sánh được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh tươi như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không chỉ đẹp mắt, thơ mộng mà còn rất phong phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì tuyệt vời đến thế, còn con người thì rất chân thật và chăm chỉ qua hình ảnh “lá trúc” với “khuôn mặt nông dân”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người đọc cảm nhận được điều đó vì người xưa thường so sánh cây trúc với người hiền lành, còn khuôn mặt nông dân thường là những người có lòng nhân ái. Bài thơ không chỉ mô tả hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ mà còn cho người đọc nhận thấy được sự ca ngợi, lòng yêu mến của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

Một cảm xúc u sầu bỏ rơi trong tâm trí của nhà thơ lại đưa chúng tôi đến với những hình ảnh chia xa, trong câu thứ hai của bài thơ xuất hiện một hình ảnh đẹp và vui tươi, đem đến sự buồn bã trong câu thơ đầu tiên nếu như.

“Gió theo hướng gió, mây theo đường mây.

Dòng nước u buồn, hoa bắp rung.”

Bất cứ lúc nào cũng có những khoảnh khắc vui buồn “bởi vì lúc này, người thơ của Mác mang đến một cảnh buồn giống như điều đó như thể điều Điều”. Nhấp nhô hoa và kết thúc buồn nước chảy “hình ảnh và kết thúc trong câu thơ biến thành cách tiếp cận của nhân loại trong cuộc sống, tiếp tục câu thơ trong tài năng biến thành cách tiếp cận của nhân loại trong cuộc sống, đóng góp vào nhịp điệu của câu thơ với sự kết hợp xa cách và sự tách rời của một hiện thực. Câu thơ với mẫu 4-3 đóng góp vào nhịp điệu với sự kết hợp xa cách và sự tách rời của một điều, trên câu thơ trong thời gian mây và gió, liên kết với nhau, thường là mây và gió bởi “bay mây, thổi gió” là cách chúng ta thường nói.

Hướng nội và u sầu, cô đơn một Hàn Mặc Tử được người đọc dần thấy khi đọc những câu thơ tiếp.

“Chiếc thuyền nào đậu bến sông trăng kia.

Có mang trăng về kịp tối nay không?”

Đoạn văn sau khi được sắp xếp lại cấu trúc: “Trong thơ ca từ ngày xưa, chúng ta thường thấy hình ảnh của mặt trăng được rất nhiều nhà thơ đưa vào bài viết của mình. Nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm mặt trăng – Cúi đầu nhớ quê hương”, Bác Hồ có “mặt trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông mặt trăng” và con thuyền “đưa mặt trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông mặt trăng” và thuyền “đưa mặt trăng” là hai hình ảnh rất quý giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong bài thơ này. “Mặt trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn thân mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để thổ lộ tâm sự. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và kết hợp với nội dung bài thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng mặt trăng chính là nhà thơ. Bởi vì ở bài thơ đầu hình ảnh làng Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “đưa mặt trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một ước muốn của nhà thơ được trở về quê hương. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối bài thơ dù thể hiện nỗi đau đáu nhớ về làng Vỹ, mong muốn trở về thăm nhưng dường như lại chứa đựng cả một nỗi khác khoái, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trở về.”

Với một sự chơi đùa, không hy vọng trong lòng tác giả, bài thơ tiếp tục đưa chúng ta đến với một thế giới tưởng tượng, không thật sau những hình ảnh u ám và cảm giác cô đơn trong tâm trí của nhà thơ.

“Mơ khách từ xa, khách từ xa.

Áo em quá trắng đến mức không thể nhìn thấy.

Tại đây, khói sương làm mờ hình ảnh.

Ai biết tình yêu ai có sâu sắc?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? Có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽ, một số tài liệu lại cho rằng đó là bức hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếm. Nhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình yêu ai có sâu sắc?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. Nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Nhà thơ Hàn Mặc Tử đã ghi lại trong bài thơ “Đây làng Vĩ Dạ” hình ảnh vùng quê tươi đẹp, phong phú và những người dân của xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với miếng đất yên bình của làng Vĩ. Trái tim của độc giả sẽ mãi khắc sâu những ấn tượng này. Bài thơ sử dụng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp ngôn từ khéo léo, mang đến cho người đọc sự hiểu biết về sự cô đơn khắc nghiệt và mong muốn trở về với miếng đất đẹp đẽ và cuộc sống hàng ngày. “Đây làng Vĩ Dạ” là một tác phẩm tuyệt vời đóng góp cho văn học đất nước.

Trên đây là bài tập viết văn phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, Baitaplamvan chúc các bạn học tốt!

Rate this post