Bệnh bụi phổi than – Thông tin hoạt động

Bệnh bụi phổi than

>> ThS. Nguyễn Đình Trung, TS. Nguyễn Thị Toán

Bệnh bụi phổi -than là một bệnh trong nhóm bệnh bụi phổi nghề nghiệp do tiếp xúc với bụi khoáng và được biết đến từ những năm 1831 trong công nhân khai thác than với tên gọi“bệnh phổi đen ở công nhân than”. Ở nhiều nước, bệnh bụi phổi- than đã được ghi nhận là bệnh nghề nghiệp được đền bù.

ệnh bụi phổi-than (Anthracosis) là do người lao động khai thác than (khai thác hầm lò, khai thác mỏ lộ thiên hay nơi sàng, tuyển, chế biến than) hít phải bụi than trong thời gian dài có những biểu hiện triệu chứng về hô hấp như ho; tức ngực; khạc đờm nhiều, thường là sau khi làm việc hoặc lúc nửa đêm, thậm chí cả khi đã nghỉ việc 3-4 ngày. Đờm thường có màu đenvà lỏng; khó thở, bắt đầu là khó thở khi gắng sức tiếp theo đến giai đoạn muộn của bệnh thì có khó thở thường xuyên và liên tục; Rối loạn thông khí phổi với hội chứng tắc nghẽn là chủ yếu và hội chứng hỗn hợp. Ngoài ra người bị bệnh bụi phổi -than còn có nguy cơ bị tràn khí màng phổi, xơ hoá phổi và viêm phế quản mạn tính.

Hình ảnh trên phim X quang phổi của bệnh bụi phổi – than là những nốt mờ tròn đều có kích thước lớn hơn 1mm thường tập trung ở phần trên và giữa phổi, có thể gặp hình ảnh các đám mờ lớn và hình ảnh khí phế thũng thường ở đáy phổi hay xung quanh đám mờ lớn.

Thành phần trong dịch rửa phổi chủ yếu là đại thực bào, có nhiều đại thực bào ăn bụi , các tế bào lympho và tìm thấy tinh thể than khi xét nghiệm đờm.

Ở Việt Nam, ngành khai thác than đang là một trong những ngành đóng góp nhiều cho ngân sách nhà nước với khoảng 90.000 lao động, trong đó có hơn 40.000 lao động trực tiếp. Tính đến năm 2007 có 554 công nhân được chẩn đoán và giám định mắc bệnh bụi phổi – silic.

Từ lâu nay ở nước ta, việc chẩn đoán bệnh bụi phổi cho công nhân khai thác than hoàn toàn là chẩn đoán bệnh bụi phổi – silic với tiêu chuẩn chẩn đoán là phải làm việc trong môi trường lao động có hàm lượng bụi silic trong bụi toàn phần là trên 5%. Như vậy là một số lượng lớn công nhân tiếp xúc trực tiếp với bụi than có nguy cơ mắc bệnh bụi phổi – than (hàm lượng bụi silic dưới 5%) sẽ không được chẩn đoán bệnh và sẽ không được đền bù do tác hại của bụi than.

Xuất phát từ các lý do trên, việc nghiên cứu và bổ sung bệnh bụi phổi – than là hết sức cần thiết góp phần cho công tác bảo đảm sức khỏe cũng như bảo đảm quyền lợi cho người lao động khai thác than.

Phơi nhiễm HIV nghề nghiệp

Đến từ những

bất cẩn…

Bác sĩ Nguyễn Tiến Lâm, Trưởng Khoa Virus – Ký sinh trùng (Viện Các bệnh Truyền nhiễm và Nhiệt đới quốc gia) cho biết, năm 2010 báo cáo của 46 tỉnh, thành trong cả nước có 411 ca phơi nhiễm HIV. Tuy nhiên, cho đến nay ở nước ta nếu bị nhiễm HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp vẫn chưa được hưởng chế độ đền bù.

Nguy cơ phơi nhiễm

Sau khi tiêm thuốc kháng sinh cho bệnh nhân Đỗ Quốc Vinh (bệnh nhân này đã được xác định nhiễm HIV), điều dưỡng Nguyễn Đăng Cường đã sơ ý để kim tiêm đâm xuyên qua da (mặc dù có đeo găng) vào đốt 1 ngón 4 tay trái của mình và gây chảy máu. Sau khi được xử lý ban đầu, lập biên bảnthông báo tai nạn nghề nghiệp và xét nghiệm HIV sau phơi nhiễm (âm tính), điều dưỡng Cường đã được dùng thuốc điều trị dự phòng phơi nhiễm HIV.

Trường hợp của kỹ thuật viên Hoàng Thị Hải lại bị phơi nhiễm trong tình huống: khi đưa ống máu của bệnh nhân AIDS vào máy xét nghiệm sinh hóa, do bất cẩn làm giá đựng huyết thanh va vào thành máy, làm cho huyết thanh trong ống nghiệm bắn vào mặt và mắt. Sau khi tiến hành rửa mắt liên tục bằng nước muối sinh lý (natri clorid 0,9%), xét nghiệm HIV xác định âm tính, kỹ thuật viên Hải đã được điều trị dự phòng phơi nhiễm bằng lamivudin + zidovudin. Sau điều trị phơi nhiễm sức khỏe của kỹ thuật viên Hải hoàn toàn bình thường và xét nghiệm lại HIV cho kết quả âm tính.

Khác với hai trường hợp trên, ThS.BS Nguyễn Ngọc Hưng, trưởng khoa Nội, bệnh viện 09 bị phơi nhiễm mà không biết. Lúc ấy vào năm 1999, khi anh còn làm công tác điều trị cai nghiện cho người nghiện chích ma túy. Trong khi đang tiêm thuốc cắt cơn cho bệnh nhân thì bệnh nhân lên cơn vật, gồng mình, đá chân, gạt tay bác sĩ làm cho xi lanh đang tiêm tĩnh mạch cho bệnh nhân quay ngược trở lại cắm vào tay của anh. Mãi 3 tháng sau anh mới biết bệnh nhân đó bị nhiễm HIV đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Bác sĩ Hưng chia sẻ: “khi biết bệnh nhân bị AIDS tôi nơm nớp lo sợ, liên tục đi xét nghiệm. Kết quả xét nghiệm sau 6 tháng thông báo âm tính mà tôivẫn không tin, cứ nghĩ biết đâu mình đang trong giai đoạn cửa sổ mà chưa phát hiện ra. Sau đó 1-2 năm đi xét nghiệm khẳng định lại tôi mới hoàn toàn yên tâm”…

Xử lý thế nào?

Bác sĩ Nguyễn Tiến Lâm, trưởng khoa Virus – Ký sinh trùng, Viện Các bệnh Truyền nhiễm và nhiệt đới quốc gia cho biết: Nguyên nhân gây phơi nhiễm HIV trong ngành y tế thường là do bất cẩn trong tiêm truyền đường tĩnh mạch hoặc bắp thịt; sơ ý trong lấy máu, làm xét nghiệm, làm các thủ thuật… Bởi vậy mà đối tượng dễ bị phơi nhiễm HIV trong ngành y tế thường là: Điều dưỡng trực tiếp chăm sóc, điều trị bệnh nhân HIV/AIDS; Nhân viên trong kíp mổ; Nhân viên y tế làm việc tại các khoa cấp cứu và điều trị tích cực; Nhân viên khoa xét nghiệm giải phẫu bệnh hoặc bác sĩ nội khoa làm thủ thuật cho bệnh nhân AIDS (chọc dịch màng não, chọc dịch màng bụng, màng phổi…). Trong ngành công an, lực lượng truy bắt tội phạm cũng dễ bị phơi nhiễm với HIV.

Theo bác sĩ Lâm, khi xảy ra phơi nhiễm HIV người bị phơi nhiễm cần tiến hành theo qui trình sau:

Xử lý vết thương tại chỗ (để máu chảy tự nhiên, không nặn bóp tránh làm đụng dập tại chỗ vết thương. Xối vết thương dưới vòi nước sạch, rửa sạch bằng xà phòng. Nếu bị phơi nhiễm qua niêm mạc, nhỏ mắt liên tục bằng nước muỗi sinh lý hoặc xúc miệng nhiều lần.

Sau khi xử lý tại chỗ cần báo cáo cho người phụ trách, ghi rõ thời gian, hoàn cảnh xảy ra phơi nhiễm; Gặp bác sĩ chuyên khoa để đánh giá mức độ vết thương, xác định mức độ nguy cơ phơi nhiễm; Làm xét nghiệm HIV cho người bị phơi nhiễm. Kết quả âm tính sẽ điều trị bằng thuốc kháng virus dự phòng trong thời gian 4 tuần. Thử lại HIV cho người bị phơi nhiễm sau thời gian 3 và 6 tháng và cần chú ý khả năng bị phơi nhiễm cả với virus viêm gan B, C.

Trường hợp nguồn gây phơi nhiễm chưa biết được tình trạng HIV cần xét nghiệm mẫu máu, dịch cơ thể của người gây phơi nhiễm.

Bác sĩ Lâm cũng cho biết, cho đến nay ở nước ta chưa có trường hợp nào bị HIV do tai nạn rủi ro nghề nghiệp.

Cách phòng tránh

Được biết hiện nay nhà nước đã có chế độ, chính sách cho người bị phơi nhiễm HIV nghề nghiệp hoặc bị nhiễm HIV do rủi ro nghề nghiệp.

Trong năm 2010, bệnh HIV/AIDS nghề nghiệp đã được xây dựng tiêu chuẩn chẩn đoán, giám định và đề xuất bổ sung vào danh mục bệnh nghề nghiệp được bảo hiểm ở Việt Nam.

Thế nhưng phòng bệnh hơn chữa bệnh. Theo bác sĩ Lâm để phòng, tránh phơi nhiễm HIV nghề nghiệp cần sử dụng các phương tiện dự phòng phổ cập như mũ, áo, khẩu trang, găng tay, áo choàng, ủng, đeo kính hoặc tấm kính che mặt; Thực hiện đúng qui trình thao tác chuẩn trong quá trình làm thủ thuật liên quan tới vật sắc nhọn, máu và dịch cơ thể của bệnh nhân; Sắp xếp nơi làm các thủ thuật y tế gọn gàng và khoa học và thực hiện đúng các qui định về loại bỏ các vật sắc nhọn sau khi sử dụng.

Ngoài ra, bác sĩ Trần Quốc Tuấn, giám đốc Bệnh viện 09 chia sẻ thêm: nên cố gắng hạn chế sử dụng thuốc tiêm truyền đối với bệnh nhân AIDS. Ví dụ, trong phác đồ điều trị lao có streptomycin (là thuốc tiêm) nhưng có thể thay thế thuốc này bằng loại thuốc uống khác. Khi chăm sóc bệnh nhân AIDS nên chọn những dụng cụ hỗ trợ giảm thiểu nguy cơ như dùng kim, bơm tiêm an toàn.

Rate this post